Thị trường nhiên liệu hóa thạch bị bóp méo
11:00 CH @ Thứ Hai - 08 tháng 9, 2014

Tốc độ công nghiệp hóa ngày càng gia tăng, kéo theo nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch (NLHT) - các sản phẩm dầu khí, than đá, ngày càng tăng mạnh.

Trong những năm tới, Việt Nam sẽ ngày càng lệ thuộc nhiều hơn vào việc nhập khẩu (NK) NLHT. Trong khi, lâu nay, theo một số chuyên gia, Chính phủ can thiệp quá sâu vào việc kiểm soát giá NLHT đã gây méo mó thị trường này.

Báo cáo “Các chính sách tài chính về NLHT và phát thải khí nhà kính ở Việt Nam” do Chương trình Liên hiệp quốc (UNDP) tại Việt Nam công bố vào ngày 15/5/2012 cho biết tỷ trọng tiêu thụ NLHT trong tổng mức tiêu thụ năng lượng đã tăng từ khoảng 20% năm 1991 lên 54% năm 2008.

Nhu cầu ngày càng tăng

Trong giai đoạn 2010 - 2030, dự báo nhu cầu điện năng sẽ tăng trưởng khoảng 9,9 - 11,2%/năm. Sản lượng điện dự kiến tăng từ 97,4 tỷ kWh năm 2009 lên khoảng 227 - 305 tỷ kWh vào năm 2020, 695 - 834 tỷ kWh vào năm 2030. Vào năm 2030, tổng công suất điện đốt than đạt 43.000 MW (xấp xỉ ¼ tổng công suất điện của Việt Nam) dự kiến tiêu thụ khoảng 80 triệu tấn than NK.

Đối với các sản phẩm từ dầu mỏ, việc tăng nhu cầu chủ yếu bắt nguồn từ tăng trưởng nhanh trong giao thông. Khối lượng vận chuyển hàng hóa và hành khách từ năm 1995 đến 2010 tăng trưởng trung bình 9,8% và 13,9%. Dầu diesel được sử dụng trong giao thông công cộng (xe buýt và tàu hỏa) và vận chuyển đường biển, đường bộ tăng nhanh, cũng như xăng sử dụng cho ôtô và xe gắn máy.

Việc tăng mức tiêu thụ dầu mỏ trong ngành giao thông, than và khí đốt để phát điện, đã thúc đẩy gia tăng tiêu thụ NLHT. Hiện Việt Nam đã xác định trữ lượng dầu mỏ là 4,4 tỷ thùng, dự kiến sẽ tăng lên cùng với việc thăm dò khai thác ở các vùng biển nước sâu hơn. Thu nhập từ xuất khẩu dầu thô chiếm khoảng 21% tổng các nguồn thu năm 2008. Petrolimex là đơn vị chi phối hoạt động NK và bán lẻ các sản phẩm xăng dầu tinh luyện như xăng và dầu diesel.

Nhà máy Lọc dầu Dung Quất bắt đầu hoạt động năm 2009, hiện đạt công suất chế biến 140.000 thùng dầu/ngày, cung cấp 1/3 nhu cầu trong nước về các sản phẩm lọc dầu, và có kế hoạch nâng công suất lên 215.000 thùng/ngày vào năm 2016. Năm 2011, bắt đầu thi công Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn với công suất dự kiến là 200.800 thùng/ngày; và một nhà máy lọc dầu được quy hoạch ở Long Sơn với công suất 240.000 thùng/ngày.

Với tổng công suất lọc dầu là 655.000 thùng/ngày (khoảng 30 triệu tấn), Việt Nam có khả năng đáp ứng khoảng 2/3 nhu cầu nội địa về các sản phẩm lọc dầu. Tuy nhiên, nhu cầu tăng nhanh dễ có khả năng vượt quá nguồn cung trong nước. Trong 5 năm tới, Việt Nam có khả năng trở thành nước NK dầu mỏ hoàn toàn xét về mặt khối lượng.

Chính phủ can thiệp quá sâu?

Để bảo đảm cho các hộ gia đình và ngành công nghiệp được sử dụng năng lượng với giá rẻ, lâu nay, Chính phủ đã phải áp dụng các hình thức kiểm soát giá khác nhau, trợ giá và giảm thuế NLHT. Điển hình như việc trong vòng nhiều năm, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) liên tục báo lỗ, nhưng các khoản lỗ này lại do Chính phủ gánh chịu, và cơ bản đó chính là các khoản trợ giá gián tiếp.

Theo đại diện của EVN, năm 2010, biểu giá điện trung bình của Việt Nam ước tính là 7 UScent/kWh, thấp hơn so với giá trung bình của khu vực ASEAN là 10 UScent/kWh. Ở Việt Nam, giá điện được quy định theo mức trần và có sự khác biệt giữa các đối tượng sử dụng. Giá than trong nước được định giá thấp hơn so với thị trường thế giới để có thể sản xuất điện và các ngành công nghiệp liên quan ở mức giá rẻ.

Đầu năm 2009, để giải quyết tình trạng giá xăng tăng, Chính phủ đã xây dựng Quỹ bình ổn giá từ các khoản phụ phí thu theo mỗi lít sản phẩm dầu mỏ tinh chế bán ra. Nhưng đến đầu năm 2011, quỹ bình ổn cạn kiệt và việc tự do hóa giá bước đầu phải dừng lại để đối phó với lạm phát. Trong cả năm 2011, mức thua lỗ từ việc bán lẻ xăng dầu đã trở nên nghiêm trọng, Chính phủ phải tạm thời ngừng áp dụng thuế NK và cho phép tăng giá bán lẻ xăng dầu thêm 15%, song các doanh nghiệp (DN) bán lẻ vẫn bị thua lỗ.

Tháng 2/2012, Bộ Tài chính đã giảm thuế NK xăng dầu và nhiên liệu máy bay, song giá tại các điểm bán lẻ xăng vẫn ở mức thấp hơn từ 1.300 - 2.400 đồng/lít so với giá NK.

Theo nhiều chuyên gia, các biện pháp kiểm soát giá của Việt Nam có nghĩa là làm cho các DN nhà nước trên thị trường năng lượng buộc phải thua lỗ, với mức lỗ đáng kể và được Nhà nước bù lại, vì các công ty độc quyền này cần phải tiếp tục cung cấp các dịch vụ của mình. Và thiếu sự cạnh tranh trên thị trường năng lượng cũng có thể che đậy thực trạng về hiệu quả yếu kém ở các DN nhà nước, ở từng bước trong chuỗi giá trị các sản phẩm năng lượng khác nhau, cấu thành các khoản lỗ và nhu cầu bù lỗ.

Thua lỗ đồng nghĩa với việc các DN nhà nước thiếu vốn đầu tư để tăng cường cung cấp và đáp ứng nhu cầu gia tăng, cũng như đầu tư vào công nghệ đổi mới tiết kiệm năng lượng và năng lượng tái tạo.

Nhiều chuyên gia cho rằng Việt Nam cần dỡ bỏ chính sách trợ giá gián tiếp và áp dụng có chọn lọc các loại thuế NLHT khác nhau, vì điều này sẽ phục vụ được nhiều mục đích, như: giảm dần thâm hụt ngân sách hàng năm và nợ công; nâng cao hiệu quả của việc sử dụng năng lượng; giảm thiểu phát thải khí nhà kính được tối ưu và an ninh năng lượng được tăng cường; tăng cường đầu tư nước ngoài và của khu vực tư nhân trong ngành năng lượng; bảo hộ người nghèo, người lao động và nhóm dễ tổn thương khác. Dỡ bỏ dần trợ giá và áp thuế cần phải đi đôi với việc tiếp tục tái cấu trúc các DN nhà nước và đưa vào áp dụng các thị trường năng lượng cạnh tranh.

Nguồn: