Trong một vài năm qua, trước tình hình giá xăng dầu thế giới và khu vực có những biến động mạnh, các cơ quan chức năng đã áp dụng hàng loạt các biện pháp hành chính để thực thi chính sách an sinh xã hội. Nói một cách khách quan, những biện pháp hành chính này cũng đã có những tác dụng nhất định để bình ổn giá bán lẻ xăng dầu.Tuy vậy, phương thức bình ổn giá bán lẻ xăng dầu bằng các biện pháp hành chính đã để lại những hậu quả rất lớn không chỉ cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu mà còn cho cả người sử dụng. Sau đây chúng tôi đưa ra một số vấn đề có liên quan để xem xét:
Cho đến nay, 3 công cụ để thực hiện được các cơ quan chức năng sử dụng để bình ổn giá xăng dầu là: điều chỉnh mức thuế suất nhập khẩu, sử dụng Quỹ bình ổn và cắt giảm lợi nhuận định mức của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu.
1- Thuế nhập khẩu xăng dầu:Xét về mặt lý thuyết và theo báo cáo của Bộ Tài chính thì việc sử dụng thuế nhập khẩu như một công cụ để bình ổn giá đã có những tác dụng nhất định trong từng thời điểm. Tuy vậy, trên thực tế việc quá lạm dụng công cụ này để thực hiện chính sách an sinh xã hội đã tạo ra không ít bất cập cho việc quản lý xã hội như nạn buôn lậu xăng dầu qua biên giới phía Bắc và phía Tây nam đất nước, hoặc vấn nạn đầu cơ tích trữ xăng dầu tại các thời điểm tăng hoặc giảm giá như các thông tin đại chúng đã đưa tin cũng như làm giảm đáng kể nguồn thu cho ngân sách,… .Chính vì những lý do đó, đại bộ phận các nhà kinh tế Việt Nam cho rằng công cụ này chỉ nên sử dụng trong trường hợp sự biến động của giá xăng dầu quốc tế và khu vực khiến giá cơ sở vượt “biên độ khung” chứ không nên lạm dụng quá công cụ này như trong thời gian qua. Làm được việc đó sẽ khiến thị trường xăng dầu Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với thị trường quốc tế và khu vực như đã ghi nhận trong Nghị định 84-CP.
Căn cứ vào ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và sau khi có ý kiến tham gia của Bộ Công Thương, tại Công văn số 837/BTC-CST ngày 19 tháng 01 năm 2010, Bộ Tài chính đã công bố các mức thuế suất thuế nhập khẩu áp dụng đối với các mặt hàng xăng, dầu thuộc nhóm 2710 (xin xem Biểu 1)
Mức thuế suất thuế nhập khẩu xăng dầu
Biểu 1
Normal0falsefalsefalseEN-USX-NONEX-NONE
STT | Giá platt’s dầu thô WTI (USD/thùng) | Mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (%) | |
Xăng, dầu hỏa, nhiên liệu bay | Diezen, mazut | ||
1 | Từ 45 đến dưới 60 | 30 | 25 |
2 | Từ 60 đến dưới 75 | 25 | 20 |
3 | Từ 75 đến 95 | 20 | 15 |
Trong đó, giá Platt’s dầu thô WTI được sử dụng làm căn cứ xác định và ban hành mức thuế suất thuế nhập khẩu là giá trên thị trường Singapore của bình quân 30 ngày trước ngày điều chỉnh thuế suất của các mặt hàng xăng dầu.
Biểu theo dõi mức thuế suất nhập khẩu xăng dầu qua các năm
(có so sánh với mức Barem quy định tại công văn số 837/BTC-CST ngày 10/1/2010)
Biểu 2:
Stt | Văn bản | Mặt hàng | Thuế suất(%) | Giá platt’s dầu thô WTI(USD/thùng) | Barem tại công văn số 837/BTC-CST(%) | |
Mức quy định | So với Barem | |||||
1 | Thông tư số 13/2010/TT-BTC ngày 26/01/2010 | Xăng | 20 | 77,07 | 20 | 0 |
Dầu hoả | 20 | 20 | 0 | |||
Diezen | 15 | 15 | 0 | |||
Mazut | 15 | 15 | 0 | |||
2 | Thông tư số 59/2010/TT-BTC ngày 19/4/2010 | Xăng | 17 | 82,90 | 20 | -3 |
Dầu hoả | 15 | 20 | -5 | |||
Diezen | 10 | 15 | -5 | |||
Mazut | 12 | 15 | -3 | |||
3 | Thông tư số 190/2010/TT-BTC ngày 1/12/2010 | Xăng | 12 | 83,53 | 20 | -8 |
Dầu hoả | 10 | 20 | -10 | |||
Diezen | 5 | 15 | -10 | |||
Mazut | 7 | 15 | -8 | |||
4 | Thông tư số 213/2010/TT-BTC ngày 22/12/2010 | Xăng | 6 | 86,09 | 20 | -14 |
Dầu hoả | 6 | 20 | -14 | |||
Diezen | 2 | 15 | -13 | |||
Mazut | 5 | 15 | -10 | |||
5 | Thông tư số 07/2011/TT-BTC ngày 14/01/2011 | Xăng | 0 | 89,57 | 20 | -20 |
Dầu hoả | 2 | 20 | -18 | |||
Diezen | 0 | 15 | -15 | |||
Mazut | 2 | 15 | -13 | |||
6 | Thông tư số 24/2011/TT-BTC ngày 23/2/2011 | Xăng | 0 | 88,01 | 20 | -20 |
Dầu hoả | 0 | 20 | -20 | |||
Diezen | 0 | 15 | -15 | |||
Mazut | 0 | 15 | -15 | |||
7 | Thông tư số 82/2011/TT-BTC ngày 10/6/2011 | Xăng | 0 | 99,60 | ≤ 20 | – |
Dầu hoả | 5 | ≤ 20 | – | |||
Diezen | 5 | ≤ 15 | – | |||
Mazut | 0 | ≤ 15 | – | |||
8 | Thông tư số 197/2011/TT-BTC ngày 28/12/2011 | Xăng | 4 | 98,56 | ≤ 20 | – |
Dầu hoả | 5 | ≤ 20 | – | |||
Diezen | 5 | ≤ 15 | – | |||
Mazut | 0 | ≤ 15 | – | |||
9 | Thông tư số 25/2012/TT-BTC ngày 21/2/2012 | Xăng | 0 | 98,75 | ≤ 20 | – |
Dầu hoả | 3 | ≤ 20 | – | |||
Diezen | 3 | ≤ 15 | – | |||
Mazut | 0 | ≤ 15 | – | |||
10 | Thông tư số 39/2012/TT-BTC ngày 8/3/2012 | Xăng | 0 | 107,10 | ≤ 20 | – |
Dầu hoả | 0 | ≤ 20 | – | |||
Diezen | 0 | ≤ 15 | – | |||
Mazut | 0 | ≤ 15 | – | |||
11 | Thông tư số 72/2012/TT-BTC ngày 10/5/2012 | Xăng | 2 | 102,13 | ≤ 20 | – |
Dầu hoả | 3 | ≤ 20 | – | |||
Diezen | 2 | ≤ 15 | – | |||
Mazut | 3 | ≤ 15 | – | |||
12 | Thông tư số 84/2012/TT-BTC ngày 24/5/2012 | Xăng | 4 | 97,51 | ≤ 20 | – |
Dầu hoả | 5 | ≤ 20 | – | |||
Diezen | 3 | ≤ 15 | – | |||
Mazut | 5 | ≤ 15 | – | |||
13 | Thông tư số 94/2012/TT-BTC ngày 8/6/2012 | Xăng | 7 | 90,28 | 20 | -13 |
Dầu hoả | 8 | 20 | -12 | |||
Diezen | 6 | 15 | -9 | |||
Mazut | 8 | 15 | -7 | |||
14 | Thông tư số 103/2012/TT-BTC ngày 22/6/2012 | Xăng | 10 | 85,01 | 20 | -10 |
Dầu hoả | 10 | 20 | -10 | |||
Diezen | 8 | 15 | -7 | |||
Mazut | 10 | 15 | -5 | |||
15 | Thông tư số 109/2012/TT-BTC ngày 3/7/2012 | Xăng | 12 | 82,41 | 20 | -8 |
Dầu hoả | 12 | 20 | -8 | |||
Diezen | 10 | 15 | -5 | |||
Mazut | 12 | 15 | -3 | |||
16 | Thông tư số 148/2012/TT-BTC ngày 11/9/2012 | Xăng | 12 | 95,47 | 20 | -8 |
Dầu hoả | 10 | 20 | -10 | |||
Diezen | 8 | 15 | -7 | |||
Mazut | 10 | 15 | -5 | |||
17 | Thông tư số 193/2012/TT-BTC ngày 15/11/2012 | Xăng | 12 | 20 | -8 | |
Dầu hoả | 10 | 20 | -10 | |||
Diezen | 8 | 15 | -7 | |||
Mazut | 10 | 15 | -5 | |||
18 | Thông tư số 43/2013/TT-BTC ngày 18/4/2013 | Xăng | 14 | 114,67 | 20 | -6 |
Dầu hỏa | 12 | 20 | -8 | |||
Diezen | 10 | 15 | -5 | |||
Mazut | 12 | 15 | -3 | |||
19 | Thông tư số 47/2013/TT-BTC ngày 26/4/2013 | Xăng | 16 | 111,29 | 20 | -4 |
Dầu hỏa | 14 | 20 | -6 | |||
Diezen | 12 | 15 | -3 | |||
Mazut | 14 | 15 | -1 | |||
20 | Thông tư số 58/2013/TT-BTC ngày 08/5/2013 | Xăng | 19 | 20 | -1 | |
Dầu hỏa | 16 | 20 | -4 | |||
Diezen | 14 | 15 | -1 | |||
Mazut | 15 | 15 | 0 | |||
21 | Thông tư số 70/2013/TT-BTC ngày 22/5/2013 | Xăng | 18 | 20 | -2 | |
Dầu hỏa | 16 | 20 | -4 | |||
Diezen | 14 | 15 | -1 | |||
Mazut | 15 | 15 | 0 | |||
Tại Biểu 2, Bộ Tài chính đã thông báo việc sử dụng mức thuế suất nhập khẩu xăng dầu để điều chỉnh giá trong từng thời điểm.
Căn cứ vào số liệu nói trên, chúng tôi xin có những ý kiến sau đây:
Căn cứ vào số liệu tại Biểu 1 cho thấy, Bộ Tài chính đã 4 lần trong năm 2010, 4 lần trong năm 2011 và có 9 lần trong năm 2012 sử dụng việc tăng giảm mức thuế suất nhập khẩu xăng dầu để điều chỉnh giá bán lẻ. Nhưng điều đáng nói ở đây là việc điều chỉnh này dựa trên tiêu thức nào thì không ai có thể hiểu được, cụ thể là khi giá dầu thô là 77,07 đôla/thùng thì mức thuế suất nhập khẩu là 20% (bằng với mức barem tại Biểu 1), khi giá dầu thô 82,90 đôla/thùng (tăng 10,9% so với mức giá 77,07 đôla/thùng) thì mức thuế suất là 17% (giảm 3% so với barem) nhưng đến khi giá dầu thô là 86,09 đôla/thùng (tăng 11,2% so với mức giá 77,07 đôla/thùng hay chỉ tăng 5,8% so với mức giá 82,90 đôla/thùng) nhưng mức thuế suất lại giảm xuống chỉ còn 6% (thấp hơn 14% so với barem). Tiếp tục như vậy, khi giá xăng tăng tới 89,57 đôla/thùng thì mức thuế suất bằng 0 (thấp hơn so với barem 20%) … .
Trên cơ sở phân tích các số liệu như đã nói ở trên cho thấy việc sử dụng thuế nhập khẩu như một công cụ điều tiết giá bán lẻ xăng dầu không theo một chuẩn mực nào, hay nói một cách khác, việc điều chỉnh mức thuế suất trong những năm qua mang đầy tính “linh hoạt” và “ngẫu hứng” của các cơ quan chức năng. Và để minh giải cho các quyết định này họ luôn có rất nhiều cách giải thích khác nhau như “đảm bảo an sinh xã hội” (khi giảm mức thuế suất) hay “tăng nguồn thu cho ngân sách” (khi tăng mức thuế suất) v..v… Với cách giải thích định tính như vậy thì họ luôn đúng và không ai có thể phủ nhận được cách lý giải này nhưng có phải chăng, chính cách điều chỉnh mức thuế suất đó một mặt khiến giá bán lẻ xăng dầu trong thời gian qua bị bóp méo, không phản ảnh trung thực bức tranh thị trường xăng dầu thế giới và khu vực, mặt khác lại tạo ra nhiều bức xúc lớn trong xã hội như các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa tin. Chúng tôi cho rằng, nếu coi xăng dầu thực sự là mặt hàng chiến lược có ảnh hưởng lớn đến chỉ số CPI, thì việc tăng hay giảm mức thuế suất phải được tiến hành theo một chính sách nhất quán nếu không đây sẽ là mảnh đất màu mỡ cho các vấn nạn xã hội như đã nói ở trên.
Để khắc phục nhữngbất cập nói trên, nhiều nhà kinh tế cho rằng nếu ổn định thuếnhập khẩu trong một năm bằng giá trị tuyệt đối và làm được điều đó thì:
Thứ nhất, trên cơ sở có nguồn thu ổn định, Nhà nước có điều kiện bình ổn giá bán lẻ xăng dầu khi giá thế giới có những biến động lớn;
Thứ hai, tránh thất thu và ổn định nguồn thu cho ngân sách Nhà nước;
Thứ ba, tạo sự minh bạch trong việc tăng giảm giá bán lẻ xăng dầu và khiến thị trường xăng dầu Việt nam sớm hòa nhậpvới thị trường thế giới và khu vực;
Thứ tư, góp phần xóa bỏ những vấn nạn xã hội như đã nói ở trên;
Thứ năm, hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra trong hoạt động tạm nhập tái xuất xăng dầu qua biên giới.
2- Quỹ bình ổn giá xăng dầu:Công cụ thứ hai được sử dụng để điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu là Quỹ bình ổn. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực cho thấy, để thể hiện tính ưu việt của thể chế chính trị cầm quyền, các quốc gia này đã thực thi những biện pháp kinh tế như hình thành quỹ bình ổn giá xăng dầu, thành lập quỹ dự phòng …. để bình ổn giá xăng dầu cho nguời sử dụng. Nguồn trích lập các quỹ này từ các nguồn sau đây: lấy từ ngân sách nhà nước, trích một phần bán dầu thô và các tài nguyên khác, lãi của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu … Trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay, việc trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu từ ngân sách nhà nước như các nước trong khu vực là bất khả thi, vì thế nếu coi xăng dầu là một trong 11 mặt hàng mà nhà nước có trách nhiệm bình ổn giá thì phải tìm các giải pháp kinh tế thích hợp hơn để thực hiện nhiệm vụ chính trị này. Sau đây chúng tôi xin tiến hành phân tích những ưu và nhược điểm của nguyên tắc trích lập, quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu hiện nay của Việt Nam.
1- Nguyên tắc trích lập: Mặc dù không phủ nhận vai trò của Quỹ bình ổn,nhưng nó luôn là một đề tài được tranh luận rất nhiều tại các hội thảo khoa học và được đăng tải nhiều nhất trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thực chất của vấn đề là ở chỗ người sử dụng không đồng tình với nguyên tắc trích lập Quỹ bình ổn hiện hành. Để độc giả hiểu rõ về những vấn đề có liên quan, chúng tôi xin cung cấp một vài thông tin mang tính lịch sử về việc trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu.
Do tính đặc thù của hoạt động kinh doanh xăng dầu, ngày 09 tháng 01 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 04/2009/QĐ-TTg về việc trích Quỹ bình ổn giá xăng dầu.
Điều 1 của Quyết định này: “Cho phép trích một khoản trước thuế thu nhập doanh nghiệp từ giá bán xăng dầu để hình thành Quỹ bình ổn giá xăng dầu”.
Điều 2 của Quyết định giao cho Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với Bộ Công Thương:
Quy định mức trích cụ thể của từng thời điểm cho phù hợp với diễn biến giá cả thế giới và trong nước.
Hướng dẫn cơ chế hoạt động, quản lý, sử dụng Quỹ.
Căn cứ Quyết định 04/2009/QĐ-TTg, các văn bản pháp quy khác có liên quan và sau khi có ý kiến của Bộ Công Thương tại Công văn số 0566/BCT-TTTN, ngày 23 tháng 03 năm 2009, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 56/2009/TT-BTC về việc hướng dẫn cơ chế hình thành, sử dụng, quyết toán Quỹ bình ổn giá xăng dầu.
Tại Điều 4 của Thông tư này, Bộ Tài chính quy định Quỹ bình ổn giá xăng dầu được trích lập từ khoản mục chi phí trong giá thành.
Quy định này hoàn toàn trái với nguyên tắc trích lập Quỹ đã được quy định tại Quyết định 04/2009/QĐ-TTg là từ thu nhập trước thuế của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Ở đây có hai vấn đề cần làm rõ:
Thứ nhất, căn cứ Luật ban hành văn bản pháp quy pháp luật đã được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 06 năm 2008, thông tư hướng dẫn là việc cụ thể hóa các điều khoản đã được quy định trong một văn bản có tính pháp lý cao hơn như Nghị định, Quyết định, Pháp lệnh chứ không được phép quy định những nội dung sai lệch với văn bản pháp quy mà nó phải hướng dẫn thực hiện.
Thứ hai, cũng tại Điều 2 của Quyết định 04/2009/QĐ-TTg, Bộ Tài chính chỉ được giao trách nhiệm: “Quy định mức trích cụ thể của từng thời điểm cho phù hợp với diễn biến giá cả thế giới và trong nước đồng thời hướng dẫn cơ chế hoạt động, quản lý, sử dụng Quỹ”, chứ không phải quy định nguyên tắc trích lập Quỹ bởi vì nguyên tắc này đã được quy định rất rõ tại Điều 1 của Quyết định.
Trong trường hợp này, nếu không được sự đồng ý của Thủ tướng hoặc Văn phòng Chính phủ bằng văn bản mà Bộ Tài chính đơn phương ban hành Thông tư nói trên đây thì đây là một văn bản được ban hành trái với quy định hiện hành.
Cho đến nay, mặc dù Thông tư số 56/2009/TT-BTC không còn hiệu lực nhưng rất tiếc Thông tư số234/2009/TT-BTC “hướng dẫn cơ chế hình thành, quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu”vẫn tiếp tục tuân thủ nguyên tắc trích lập Quỹ lấy từ “túi” của người sử dụng.
Một số ý kiến cho rằng, hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đều lỗ thì lấy đâu lợi nhuận trước thuế để thành lập Quỹ bình ổn. Ở đây phải phân định rõ, nguyên nhân lỗ của các doanh nghiệp này là do đâu: do kinh doanh kém hiệu quả hay do cơ chế khiến họ không thể có lãi. Thực tế cho thấy, phương thức điều hành hoạt động kinh doanh xăng dầu trong thời gian qua bằng các biện pháp hành chính quan liêu, mang nặng tính bao cấp và duy ý chí của các cơ quan chức năng đã khiến các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu không thể có lãi và thậm chí còn bị lỗ do cơ chế. Điều đó có nghĩa là phải sửa lỗi cơ chế chứ không phải khắc phục bằng cách lấy tiền của người sử dụng để “chữa cháy” cho sự điều hành kém hiệu quả của mình.
Ở đây chúng ta cần làm rõ: Chủ thể nào lãnh trách nhiệm bình ổn giá nói chung và giá cả xăng dầu nói riêng: Nhà nước, doanh nghiệp hay người sử dụng? Đối với các mặt hàng khác, việc bình ổn giá đều lấy từ nguồn ngân sách hoặc ngân sách hỗ trợ thông qua lãi suất tín dụng cho các doanh nghiệp thực hiện bình ổn giá hay nói cách khác trách nhiệm thuộc Nhà nước. Trong Luật doanh nghiệp và các văn bản pháp quy có liên quan, không có một điều khoản nào quy định doanh nghiệp phải có trách nhiệm thực hiện chính sách bình ổn giá. Doanh nghiệp chỉ có trách nhiệm kinh doanh có lãi và sau khi thực hiện các nghĩa vụ tài chính thu lại phần lợi nhuận chính đáng cho doanh nghiệp (nếu là doanh nghiệp Nhà nước thì nộp ngân sách, nếu là công ty cổ phẩn thì chia cho các cổ đông …) hoặc doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội thông qua các hình thức đóng góp của mình trong các chương trình hỗ trợ an sinh xã hội do các tổ chức xã hội tổ chức. Còn người sử dụng thì sao? Chúng tôi xin khẳng định, trong mọi trường hợp, người sử dụng chỉ là chủ thể thụ hưởng chính sách bình ổn giá chứ hoàn toàn không có trách nhiệm trong việc bình ổn bất kỳ loại hàng hóa nào. Thêm vào đó, ngoài việc phải “móc túi” của mình để trích lập Quỹ bình ổn,người tiêu dùng lại phải đóng thêm 10% số tiền 300 đồng/lít xăng để trả thuế VAT cho chính số tiền bị trưng dụng không lấy lãi đó cho ngân sách Nhà nước.
2- Quản lý Quỹ bình ổn giá xăng dầu:Việc quản lý Quỹ bình ổn cũng gây nhiều bức xúc cho dư luận. Người sử dụng có quyền đặt câu hỏi với Bộ Tài chính và các cơ quan chức năng liệu việc quản lý quỹ đã thật sự minh bạch chưa một khi Quỹ này hiện do các thương nhân đầu mối nắm giữ?. Ở đây chỉ có hai tình huống xảy ra:
1- Với quy mô của Quỹ lên tới hàng trăm ngàn tỷ đồng nhàn rỗi khi chưa được huy động vào mục đích bình ổn giá xăng dầu nếu không được huy động để tạo ra của cải vật chất thì đây là một thiệt hại rất lớn cho toàn xã hội mặt khác nếu một lượng lớn tiền mặt không được lưu thông sẽ tạo ra những ảnh hưởng không nhỏ cho nền kinh tế.
2- Số tiền này đã được các thương nhân đầu mối“chiếm dụng” để làm vốn lưu động thì người chịu sự thiệt thòi vẫn là người sử dụng vì đó là tiền của họ chứ không phải của Nhà nước và lại càng không phải của doanh nghiệp. Mặc dù không có số liệu để chứng minh nhưng chúng tôi tin rằng các nhà kinh doanh xăng dầu không thể không biết tận dụng sự “quan liêu” của các nhà lập pháp Việt Nam để biến Quỹ bình ổn thành nguồn vốn lưu động “không phải trả lãi” trong hoạt động kinh doanh của mình.
Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng, Quỹ bình ổn đặt tại doanh nghiệp là đúng và hợp lý nhưng một khi doanh nghiệp sử dụng số tiền nhàn rỗi trong Quỹ để phục vụ mục tiêu kinh doanh của mình thì doanh nghiệp phải trả lãi cho số tiền đó theo mức lãi suất huy động của ngân hàng.
3- Sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu:Việc sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu hiện nay cũng nằm trong tình trạng như việc tăng giảm mức thuế suất nhập khẩu xăng dầu phục vụ mục tiêu ổn định giá bán lẻ. Có nghĩa là, các cơ quan chức năng cũng rất “ngẫu hứng”và đưa ra các quyết định hành chính trong việc sử dụng nguồn Quỹ giới hạn này để thực hiện mục tiêu tối thượng là an sinh xã hội. Thậm chí, khi số tiền trong Quỹ đã sử dụng hết nhưng các cơ quan chức năng vẫn dùng các biện pháp hành chính để bắt thương nhân đầu mối sử dụng vốn lưu động của mình (mà các doanh nghiệp này phải vay ngân hàng) cho việc bình ổn giá bán lẻ xăng dầu. Đây là một bất hợp lý cần sửa đổi. Trong trường hợp này, Nhà nước có trách nhiệm phải hoàn trả doanh nghiệp đầu mối phần lãi ngân hàng cho số tiền lạm chi này. Đây cũng là một trong lý do khiến các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu rất bức xúc với phương thức điều hành và quản lý của các cơ quan chức năng trong thời gian qua.
Những phân tích trên cho thấy, Quỹ bình ổn giá xăng dầu của Việt Nam hiện nay còn quá nhiều bất cập và vô lý từ khâu hình thành, quản lý và sử dụng Quỹ và điều đó tạo ra nhiều bức xúc trong xã hội và gây bất ổn cho thị trường xăng dầu. Để khắc phục những bất cập nói trên, Chính phủ nên có một Quyết định riêng về việc hình thành, quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu phù hợp với các quy luật phát triển kinh tế và hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam.
3- Cắt giảm lợi nhuận định mức:Theo quy định hiện hành, toàn bộ chu trình từ khâu nhập khẩu đến khâu bán lẻ xăng dầu có định mức chi phí là 860 đồng/lít xăng và được hưởng một khoản lợi nhuận định mức là 300 đồng/lít xăng. Để xem xét tính hợp lý của quy định này, chúng tôi xin cung cấp bản tính chi phí cụ thể tại một cửa hàng kinh doanh bán lẻ xăng dầu:
CHI PHÍ BÌNH QUÂN
CHO MỘT CÂY XĂNG CÓ CÔNG SUẤT 100 m3/tháng
Biểu số 3
No | Danh sách chi phí | Chi phí | Tổng số (đồng/tháng) |
1 | + Quỹ lương tháng: -Cửa hàng trưởng: -4 nhân viên + Bảo hiểm y tế, thất nghiệp … 23% quỹ lương | 3.500.000 đồng/tháng 12.000.000 đồng/tháng 4.384.950 đồng/tháng | 19.065.000 |
2 | Quần áo bảo hộ lao động | 4.000.000 đồng/4người/năm | 333.333 |
3 | Khấu hao Tài sản cố định (xin xem Biểu số 1) | 11.850.000 đồng/tháng | 11.850.000 |
4 | Sửa chữa bảo trì | 2.500.000 đồng/tháng | 2.500.000 |
6 | Chi phí khác | 1.000.000 đồng/tháng | 1.000.000 |
7 | Trả lãi ngân hàng | 10.000.000 đồng/tháng | 10.000.000 |
Tổng số: | 47.093.000 |
Với công suất 100.000 lít/ tháng, chi phí thực tế để vận hành một cây xăng là 470,093 đồng/lít (mức chi phí này còn chưa tính đến tiền thuê địa điểm và mức hao hụt xăng dầu).
Số liệu Biểu 3 cho thấy, chi phí thực thực tế của một cây xăng có sản lượng 100.000 lít/tháng là 470,093 đồng/lít xăng. Hay nói một cách khác, hoa hồng mà tổng đại lý hoặc doanh nghiệp đầu mối trả cho đại lý phải cao hơn mức chi phí này thì cây xăng mới có thể tiếp tục duy trì hoạt động. Với mức khoán 1160 đồng/lít xăng (860 đồng/lít xăng chi phí định mức và 300 đồng/lít xăng lãi định mức), cho cả 3 khâu nhập khẩu, bán buôn (tổng đại lý) và bán lẻ (đại lý) là quá thấp nay lại cắt giảm lãi định mức để bình ổn giá xăng dầu thì quả là quá bất công đối với các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu.
Trên đây là những bất cập trong khâu điều hành quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam trong những năm qua. Hy vọng rằng những bất cập này sẽ được khắc phục bằng những điều khoản cụ thể trong Nghị định 84-CP được sửa đổi và bổ sung trong thời gian tới. Người tiêu dùng, các doanh nghiệp xăng dầu, giới chuyên gia kinh tế đang kỳ vọng rất lớn vào tư duy đổi mới, để đánh giá nghiêm túc quá trình thực hiện Nghị định 84-CP và đưa ra được những nội dung cần sửa đổi một cách minh bạch, rõ ràng hơn, tiến bộ hơn, tiếp cận gần hơn với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và tạo ra một hành lang pháp lý mới cho hoạt động kinh doanh xăng dầu trong thời gian tới.
TIN KHÁC
Bộ Công Thương làm việc với PVOIL về đảm bảo nguồn cung xăng dầu dịp Tết 2026(26/12/2025)
BSR bàn giao lô nhiên liệu đặc chủng đầu tiên phục vụ quốc phòng cho Cục Xăng dầu tại Phân kho 85(26/12/2025)
Đề xuất lùi thời điểm hạn chế xe xăng dầu vào trung tâm TPHCM(26/12/2025)
Một số thông tin về việc điều hành giá xăng dầu ngày 25/12/2025(25/12/2025)
BSR đạt mốc doanh thu hợp nhất 140.000 tỷ đồng, khẳng định vị thế trụ cột của Petrovietnam(25/12/2025)
