1.Trữ lượng
Iran là một thành viên của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC, nằm trong top 4 nước đứng đầu thế giới về sở hữu cả trữ lượng dầu và khí tự nhiên.
Trong năm 2010, Iran là nhà xuất khẩu lớn thứ ba thế giới về dầu thô, sau Ả rập Xê Út và Nga. Tuy nhiên việc giảm sản xuất và tăng tiêu thụ nội địa sẽ tiếp tục siết chặt sản lượng lượng dầu dành cho xuất khẩu trong những năm gần đây.
Iran là nước có trữ lượng khí tự nhiên lớn thứ hai thế giới, tuy nhiên lĩnh vực này đang chậm phát triển và hầu hết chỉ sử dụng để đáp ứng nhu cầu nội địa. Khí đốt tự nhiên chiếm khoảng 54% tổng lượng tiêu thụ năng lượng nội địa của nước này. Hầu hết lượng tiêu thụ năng lượng còn lại là từ dầu mỏ, với những đóng góp ngoài lề là từ than đá và thủy điện. Iran dự kiến sẽ mở rộng sản xuất khí đốt tự nhiên từ mỏ khí đốt South Pars ngoài khơi vùng vịnh Ba Tư như là một phần trong kế hoạch mở rộng ngành năng lượng của nước này.Iran là nhà xuất khẩu lớn thứ ba thế giới về dầu thô. Ảnh: Internet
Iran có khoảng 40 mỏ dầu đang được khai thác (27 mỏ trên đất liền và 13 mỏ ngoài khơi), trong đó các mỏ ở đất liền chiếm khoảng 71% tổng trữ lượng. Hiện tại, mỏ dầu lớn nhất của Iran là mỏ Ahvaz trên đất liền, đứng thứ hai là Maroun. Cả hai mỏ này đều nằm ở tỉnh Khuzestan.
Hơn 50% trữ lượng dầu của Iran được tập trung trong 6 mỏ dầu với trữ lượng khổng lồ. Trong số những mỏ trong đất liền, 85% nằm ở lưu vực phía Nam tỉnh Khuzestan gần biên giới với Iraq.
Dầu thô của Iran được đánh giá có hàm lượng lưu huỳnh trung bình, và trọng lượng API là 28°-35°.2.Tổ chức và phát triển ngành
Dưới sự giám sát của Bộ Dầu mỏ Iran, Tập đoàn Dầu mỏ Quốc gia Iran (NIOC), chịu trách nhiệm về tất cả các dự án dầu mỏ thượng nguồn, bao gồm cả sản xuất và xuất khẩu. Công ty Dầu mỏ Nam Iran (NISOC), một công ty con của NIOC đảm nhận 80% việc sản xuất dầu, bao gồm các tỉnh Khuzestan, Bushehr, Fars, Kohkiluyeh và BoyerAhmad. Trên danh nghĩa, Tập đoàn NIOC vẫn kiểm soát hoạt động lọc dầu (tinh chế) và mạng lưới phân phối nội địa thông qua chi nhánh con là Tập đoàn Lọc dầu và Phân phối Quốc gia Iran (NIORDC) mặc dù về mặc chức năng vẫn có sự tách biệt giữa lĩnh vực thượng nguồn và hạ nguồn.
Hiến pháp của Iran cấm nước ngoài hay sở hữu tư nhân về các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chính phủ nước này cho phép mua lại các hợp đồng mà cho phép các công ty dầu quốc tế (IOCs) tham gia vào các hợp đồng khai thác và phát triển thông qua một chi nhánh của Iran. Nhà thầu này sẽ nhận được một khoản phí thù lao, thường là một quyền lợi về dầu mỏ hoặc khí đốt để nhà thầu này cung cấp nguồn vốn cần thiết trước. Sau đó, một khi việc phát triển mỏ dầu đó được hoàn tất, việc quản lý sẽ được giao lại cho NIOC và các công ty liên quan.3.Khai thác và sản xuất
Iran là nhà sản xuất dầu mỏ lớn thứ hai trong khối OPEC sau Ả rập Xê út và là nước xuất khẩu dầu thô đứng thứ ba trên thế giới.
Năm 2010, Iran sản xuất khoảng 3,7 triệu thùng dầu thô mỗi ngày, chiếm khoảng 5% lượng sản xuất của toàn thế giới. Năm 2011, ước tính Iran đã sản xuất gần 3,6 – 3,65 triệu thùng mỗi ngày. Từ những năm 1970, ngành sản xuất dầu mỏ của Iran đã thay đổi rất nhiều. Sản xuất trung bình của Iran đạt hơn 5,5 triệu thùng mỗi ngày trong năm 1976 và 1977 với mức sản xuất đỉnh điểm là 6 triệu thùng/ngày trong giai đoạn này. Tuy nhiên, từ cuộc cách mạng năm 1979, sự kết hợp của chiến tranh, hạn chế đầu tư, các lệnh trừng phạt và sự hao hụt tự nhiên của các mỏ dầu chính của Iran khiến cho nước này khó có thể trở lại mức sản xuất như trước đây. Ước tính mỗi ngày có khoảng 400,000 – 700,000 thùng dầu thô bị hao hụt trong các mỏ chính của Iran. Để bù đắp mức hao hụt tự nhiên này, các mỏ dầu của nước này cần phải nâng cấp cấu trúc, bao gồm các công nghệ tăng cường thu hồi dầu (EOR) như phun khí tự nhiên, công nghệ đã từng gây ra căng thẳng về nguồn cung năng lượng do làm tăng cao nhu cầu khí tự nhiên trong nước.
Trữ lượng dầu của Iran không chỉ giới hạn ở khu vực phía nam và các mỏ ngoài khơi vùng vịnh Ba Tư mà còn ở những mỏ tiềm năng chưa được khám phá. Iran có những mỏ ở dưới biển Caspi nhưng việc thăm dò và khai thác vẫn bị chững lại do những tranh chấp lãnh thổ vơi các nước láng giềng Azerbaijan và Turkmenistan. Iran cũng chia sẻ một số mỏ ở cả đất liền với các nước láng giềng bao gồm Iraq, Quatar, Kuwait và Ả rập Xê út.
* Hệ thống đường ống
Iran hiện có mạng lưới với hơn 10 đường ống dài từ 63 đến 630 dặm. Nước này đã đầu tư cho công suất nhập khẩu tại cảng Caspi để giải quyết khâu vận chuyển sản phẩm từ Nga và Azerbaijan và cho phép các giao dịch trao đổi dầu với Turkmenistan và Kazakhstan.
Iran đang có kế hoạch xây dựng đường ống dẫn dầu trị giá 1,3 tỉ $ kéo dài 684 dặm, cho phép vận chuyển dầu thô từ tỉnh Khuzestan tới nhà máy lọc dầu Tehran. Ngoài ra, nước này cũng đang trong quá trình xây dựng 3 đường ống khác bao gồm Nayeen-Kashan, Rafsanjan-Mashhad, và Bandar Abbas-Rafsanjan.
4.Xuất khẩu
| Năm 2010, Iran đã xuất khẩu gần 2,2 triệu thùng dầu thô mỗi ngày. Doanh thu xuất khẩu ròng của Iran đạt khoảng gần 73 tỉ $. Xuất khẩu dầu cung cấp một nửa doanh thu cho chính phủ Iran trong khi dầu thô và các sản phẩm tinh chế của nó chiếm gần 80% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Iran. Năm 2011, Xuất khẩu của Iran vẫn duy trì ở mức 2,2 triệu thùng/ngày. Sáu tháng đầu năm 2011, các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng nhập khẩu dầu của Iran trong khi lượng nhập khẩu dầu từ Anh và Italya giảm đi do lệnh trừng phạt áp dụng với ngành năng lượng Iran. | Nguồn: Global Trade Atlas, APEX |
Kharg Island hiện là kho cảng xuất khẩu lớn của Iran, có thể chứa khoảng 20,2 triệu thùng dầu và tải được 5 triệu thùng dầu/ngày. Lavan là kho chứa lớn thứ hai với sức chứa là 5 triệu thùng và sức tải là 200,000 thùng dầu/ngày. Các kho nhập khẩu khác bao gồm Kish Island, Abadan, Bandar Mahshar, và Neka giúp nhập khẩu từ khu vực biển Caspi.
Eo biển Hormuz, nằm trên bờ biển phía Nam của Iran là một tuyến đường quan trọng để xuất khẩu dầu mỏ từ Iran sang các nước vùng vịnh Ba Tư khác. Điểm hẹp nhất của eo biển Hormuz rộng khoảng 21 dặm, nhưng ước tính khoảng 17 triệu thùng dầu mỗi ngày được chuyển qua eo biển này trong năm 2011 (35% trên tổng các giao dịch dầu mỏ đường biển và 20% lượng dầu giao dịch trên toàn thế giới). Bên cạnh dầu mỏ, khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) cũng được vận chuyển qua đây, ước tính khoảng 70 triệu tấn trong năm từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2011.
5. Tiêu thụ và nhập khẩu
Iran là quốc gia tiêu thụ dầu lớn thứ hai khu vực Trung Đông, chỉ sau Ả rập Xê út. Nhu cầu dầu thô nội địa chính của nước này là dầu diesel và xăng. Tổng lượng tiêu thụ trong năm 2010 xấp xỉ khoảng 1,8 triệu thùng/ngày, cao hơn 10% so với năm 2009. Là một trong những nhà sản xuất dầu thô lớn nhất thế giới, Iran lại thiếu cơ sở lọc dầu, và buộc phải tìm kiếm xăng ở nước ngoài, bất chấp việc liên tục cải thiện khả năng của các nhà máy lọc.
Công suất lọc các sản phẩm dầu nhẹ tại nước này rất hạn chế, tổng công suất lọc dầu của Iran năm 2011 khoảng 1,5 triệu thùng/ngày với 9 nhà máy lọc dầu hoạt động dưới sự điều hành của Công ty Lọc dầu và Phân phối Dầu mỏ Quốc gia Iran (NIORDC).
Gần đây, Iran cũng gặp phải một số khó khăn khác khi nỗ lực mở rộng công suất lọc dầu. Nhà máy lọc dầu Abadan của Iran đã bị nổ tung ngay trong ngày lễ khánh thành do bị rò rỉ khí ga khiến NIORDC mất 4 tháng để xây dựng và khôi phục lại cơ sở này.
Trong năm 2010, Iran tiêu thụ khoảng 400,000 thùng xăng/ngày, ít hơn khoảng 4% lượng tiêu thụ trong năm 2009. Để đáp ứng nhu cầu nội địa, Iran đã phải nhập khẩu gần 78,000 thùng dầu mỗi ngày trong năm 2010. Iran dự kiến vẫn sẽ nhập khẩu trong năm tới, tuy nhiên một khi 6 nhà máy lọc dầu được hoàn thiện, nước này có thể trở thành một nước xuất khẩu xăng trong năm 2015.
Hiện nay, với mục tiêu trở thành nước tự đáp ứng đủ nhu cầu xăng nội địa, Iran có kế hoạch tăng công suất lọc dầu thông qua việc mở rộng các nhà máy lọc dầu hiện có cũng như xây dựng các nhà máy mới. Nước này đã cho phép xây dựng 6 nhà máy lọc dầu mới với công suất 1,2 triệu thùng dầu mỗi ngày tuy nhiên vẫn đang vấp phải những khó khăn tài chính nhất định.
Nguồn:OilandGasJournal,January 2011 | Các biện pháp trừng phạt đã tác động tới việc nhập khẩu xăng để đáp ứng nhu cầu nội địa của Iran. Do đó, Chính phủ nước này đã nỗ lực kiểm soát tiêu thụ năng lượng đang ở mức cao bằng cách thực hiện các kế hoạch cải cách khẩn cấp, cắt giảm một số khoản trợ cấp nhiên liệu khiến giá xăng tăng mạnh trong tháng 12/2010. Trước đó, giá xăng tại Iran thuộc vào loại rẻ nhất thể giới, chỉ khoảng 10 cent/lít. Nhưng giờ, giá xăng với người mua dưới 60 lít/tháng ở tương đương khoảng 40 cent/lít – tăng gấp 4 lần, và với người mua lượng cao hơn là khoảng 70 cent/lít. Lượng tiêu thụ nhiên liệu xăng tại Iran, vì thế cũng đã giảm 20%. |
Mỹ, Liên Hiệp Quốc, Liên minh Châu Âu và một số nước chây Âu và châu Á đã nhắm mục tiêu vào ngành năng lượng Iran với các lệnh trừng phạt có mức độ nghiêm ngặt khác nhau. Điều này khiến một số lượng lớn các công ty năng lượng quốc tế rút khỏi các dự án thượng nguồn của Iran.
Mỹ cũng đưa ra danh sách miễn trừ các ảnh hưởng của lệnh cấm vận đối với 18 quốc gia và vùng lãnh thổ. Họ được mua dầu của Iran nhưng với số lượng giảm bớt hẳn so với trước đây và thay thế nhu cầu dầu bằng các nguồn cung khác. Các quốc gia và vùng lãnh thổ này bao gồm thành viên EU, Ấn Độ, Malaysia, Nam Phi, Sri Lanka, Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan.
Mục đích của lệnh trừng phạt này nhằm triệt tiêu khoản thu nhập lớn nhất của Iran - nước xuất dầu lớn thứ năm thế giới và lớn thứ hai trong khối OPEC - từ việc xuất khẩu dầu mỏ, từ đó Iran không còn tiềm lực tài chính phát triển công nghệ hạt nhân và vũ khí nguyên tử.
Lệnh trừng phạt của quốc tế đã kìm hãm sự phát triển của cả ngành năng lượng nước này, đặc biệt ảnh hưởng tới đầu tư thượng nguồn của các dự án dầu mỏ và khí đốt tự nhiên của Iran.
Lo ngại lệnh cấm vận, nhiều tập đoàn lớn đã rút khỏi thị trường Iran. Đáng kể nhất là Trung Quốc rút khỏi dự án xây đập trị giá 2 tỷ USD và dự án khí đốt trị giá 4,7 tỷ USD; Nga rút khỏi dự án khai thác dầu trị giá hơn 2 tỷ USD. Các tập đoàn xe hơi Peugeot của Pháp, Mercedes của Đức hay Huyndai của Hàn Quốc cũng đã tháo chạy khỏi thị trường này gây thiệt hại lớn cho Iran.
Ngân hàng Côn Lôn của Trung Quốc và Ngân hàng Elaf của Iraq cũng nằm trong đối tượng bị trừng phạt và sẽ bị loại ra khỏi hệ thống tài chính của Mỹ vì đã giúp Iran né tránh các biện pháp cấm vận.
Bị ảnh hưởng bởi lệnh cấm vận, sản lượng dầu thô của Iran đã giảm xuống mức 1,2-1,8 triệu thùng/ngày, mức thấp nhất trong 20 năm qua.
Nguồn tham khảo: eia.doe.gov(tháng 2/2012)
TIN KHÁC
Tại sao chữa cháy xe điện lại khó hơn xe xăng?(18/11/2025)
Bài 3: "Câu chuyện từ Dung Quất"(31/10/2025)
Bài 2: Từ phụ thuộc nhập khẩu đến làm chủ công nghệ, tự chủ sản xuất(31/10/2025)
Bài 1: Nền tảng để giữ gìn độc lập, phát triển đất nước(31/10/2025)
Xăng sinh học tác động tới xe thế nào?(25/07/2025)
